Thực đơn
Máy lạnh hấp thụ Nguyên lý hoạt độngNhững thiết bị làm lạnh hấp thụ sẽ dùng môi chất lạnh với nhiệt độ sôi rất thấp (dưới −18 °C) giống như những máy làm lạnh nén hơi thông thường. Tuy nhiên, máy lạnh nén hơi thường sử dụng Chlorofluorocarbon (CFC), Hydrochlorofluorocarbon (HCFC), hoặc Hydrofluorocarbon (HFC); trong khi máy lạnh hấp thụ sử dụng amonia hoặc nước và cần ít nhất một môi chất thứ hai để hấp thụ chất làm lạnh được gọi là chấp hấp thụ (absorbent) như nước (cho hệ amonia) hoặc nước muối (cho hệ nước). Cả hai công nghệ làm lạnh này đều áp dụng hiện tượng làm lạnh bay hơi (evaporative cooling): Khi môi chất lạnh bay hơi, nó sẽ lấy một phần nhiệt lượng đi cùng, tạo nên hiện tượng làm lạnh. Tuy nhiên, sự khác biệt rõ rệt giữa hai hệ làm lạnh này cách mà môi chất lạnh thay đổi từ trạng thái hơi trở về trạng thái lỏng để rồi sau đó chu trình được lặp lại từ đầu. Một máy lạnh hấp thụ sẽ đưa môi chất từ thể hơi về lỏng bằng phương pháp chỉ cần dùng nhiệt và không cần bộ phận chuyển động nào khác ngoài môi chất lạnh.
Sơ đồ chu trình làm lạnh hấp thụChu trình làm lạnh hấp thụ có thể được mô tả qua ba giai đoạn:
Hệ làm lạnh hấp thụ sẽ tự tạo chuyển động của lưu chất mà không cần dùng đến bơm. Môi chất thứ ba, ở thể khí, thường được thêm vào hệ thống để cân bằng áp suất khi quá trình ngưng tụ diễn ra.
Trong khi đó, máy lạnh nén hơi sử dụng một máy nén, chạy bằng điện hoặc động cơ đốt trong, để tăng áp suất cho hơi môi chất lạnh. Hơi môi chất lạnh nóng sau đó bị ngưng tụ trở về trạng thái lỏng khi đi qua “bộ ngưng tụ” (condenser)–thiết bị trao đổi nhiệt với môi trường xung quanh. Môi chất lạnh sau khi ngưng tụ có nhiệt độ gần với nhiệt độ môi trường nhưng ở áp suất cao hơn, nên đi qua một van tiết lưu hoặc lỗ tiết lưu để vào “bộ bay hơi” (evaporator). Van tiết lưu (throttle valve) giúp tạo sự giảm áp suất giữa bộ ngưng tụ áp suất cao và bộ bay hơi áp suất thấp. Áp suất trong bộ bay hơi thấp, giúp môi chất lạnh bay hơi, đồng thời thu nhiệt từ buồng làm lạnh. Môi chất lạnh, lúc này ở thể khí, sẽ trở lại máy nén để tiếp tục lặp lại chu trình.
Một hệ thống làm lạnh hấp thụ đơn giản thường gặp trong các nhà xưởng lớn sử dụng dung dịch muối lithi bromua (hoặc lithi cloride) và nước. Nước dưới áp suất thấp sẽ bay hơi từ cuộn ống làm lạnh. Nước sau đó được hấp thụ bởi dung dịch muối lithi bromide/nước. Sau đó, nước sẽ được giải hấp khỏi dung dịch lithi bromide khi được cấp nhiệt.[5]
Một hệ thống tương tự sử dụng không khí, nước và dung dịch muối. Không khí ẩm nóng được đi qua dung dịch nước muối phun sương. Việc phun sương nước muối giúp làm giảm độ ẩm nhưng không thay đổi nhiệt độ. Không khí nóng nhưng khô sau đó sẽ đi qua giàn lạnh bay hơi (evaporative cooler), có phun sương nước sạch, giúp làm mát và làm ẩm không khí trở lại. Độ ẩm được tách ra khỏi không khí mát bằng việc phun sương dung dịch muối, sẽ cung cấp luồng khí khô–mát cuối cùng.
Dung dịch muối được hoàn nguyên bằng cách gia nhiệt dưới áp suất thấp, giúp nước bay hơi. Nước sau khi bay hơi khỏi dung dịch muối sẽ được ngưng tụ trở lại và đưa trở về giàn lạnh bay hơi.
Máy lạnh hấp thụ một áp suất dựa trên nguyên tắc tốc độ bay hơi của chất lỏng phụ thuộc vào áp suất riêng phần của hơi phía trên chất lỏng; áp suất càng thấp thì tốc độ bay hơi càng cao. Áp suất tổng của toàn bộ hệ thống làm lạnh được giữ nguyên không đổi (nên được gọi là “một áp suất”). Máy lạnh sẽ duy trì áp suất riêng phần thấp cho môi chất lạnh (có tốc độ bay hơi cao) ở bộ phận thu nhiệt từ buồng làm lạnh bên trong máy lạnh, và duy trì áp suất cao (tốc độ bay hơi thấp) ở bộ phận thải nhiệt ra môi trường bên ngoài máy lạnh.
Thiết bị làm lạnh sử dụng ba môi chất: amonia, khí hydro, và nước. Chu trình diễn ra khép kín, với ba môi chất này được thu hồi và tái sử dụng liên tục. Hệ thống được nén đến áp suất mà nhiệt độ sôi của amonia cao hơn nhiệt độ của cuộn ống ngưng tụ (nơi trao đổi nhiệt với không khí bên ngoài, do nhiệt độ của cuộn ống cao hơn nhiệt độ không khí). Áp suất này thường vào khoảng 14–16 atm, ở áp suất này, amonia có nhiệt độ sôi khoảng 35 °C.
Chu trình làm lạnh bắt đầu với dung dịch amonia ở nhiệt độ phòng đi vào bộ phận bay hơi. Thể tích trong bộ bay hơi lớn hơn thể tích dung dịch, với sự có mặt của hỗn hợp hơi amonia và khí hydro. Sự có mặt của khí hydro làm giảm áp suất riêng phần của amonia, do vậy làm giảm nhiệt độ hóa hơi của dung dịch ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bên trong buồng lạnh. Amonica bay hơi, thu một phần lượng nhiệt từ dung dịch và làm giảm nhiệt độ dung dịch. amonia tiếp tục bay hơi, tiếp tục thu lượng nhiệt ẩn hóa hơi (entanpi hóa hơi ΔHVap) từ nơi có nhiệt độ cao hơn (buồng làm lạnh) chuyển sang nơi có nhiệt độ thấp hơn (amonia thể lỏng–hơi).
Trong hai giai đoạn tiếp theo, hơi amonia được phân tách khỏi hỗn hợp với khí hydro để sau đó được tiếp tục tái sử dụng.
Hơi amonia sau đó đi vào bộ ngưng tụ. Ở thiết bị trao đổi nhiệt này, hơi truyền nhiệt cho không khí bên ngoài, dưới điểm sôi của amonia ở cùng áp suất, do vậy hơi amonia ngưng tụ. Dung dịch amonia lỏng chảy tiếp và được trộn với khí hydro ở bộ hấp thụ, lặp lại chu trình như ban đầu.
Thực đơn
Máy lạnh hấp thụ Nguyên lý hoạt độngLiên quan
Máy Máy tính Máy đánh bạc Máy bay Máy rút tiền tự động Máy bay tiêm kích Máy tính bảng Máy tính cá nhân IBM Máy tính xách tay Máy bay trực thăngTài liệu tham khảo
WikiPedia: Máy lạnh hấp thụ http://www.google.com/patents?q=1781541 http://www.ted.com/talks/adam_grosser_and_his_sust...